Phòng bệnh ung thư gan những lưu ý

Posted: Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015 by Unknown in Nhãn:
0

Việc điều trị bệnh ung thư gan là rất khó khăn và tổn hại , đòi hỏi bệnh nhân phải bền chí và giữ vững ý thức . Các phương thức chữa trị ung thư gan như xạ trị, hóa trị, ghép gan… cũng chỉ trì hoãn sự sống cho bệnh nhân chứ không thể chữa bình phục hoàn toàn được, và tùy vào tình trạng cụ thể của người bệnh mà có biện pháp chữa trị hợp lý .

Thuốc Fucoidan điều trị ung thư gan hiêu quả

1. Ung thư gan có thể phẫu thuật

Các chọn lựa chữa trị chuẩn:giải phẫu : mổ xẻ cắt khối ung thư gan khu trú có khả năng là cắt một phần thuỳ đến ba phần thuỳ (80%). Trong một loạt người mắc bệnh được chọn lựa cẩn trọng , phẫu thuật cắt gan bán phần mang lại thời kỳ sống thêm dài 5 năm cho 10 - 30% người bệnh . Ung thư tế bào gan thường có nhiều ổ và có thể đã ảnh hưởng tới nhiều vị trí trong tất cả gan tại thời khắc thăm khám, thậm chí ngay cả khi phát hiện thấy khối u lớn nhất khi thăm dò trước mổ xẻ . Trước phẫu thuật cần làm các dò la để tìm di căn ngoài gan, vì tình trạng này sẽ cản trở tiến hành giải phẫu cắt gan theo dự định .

giải phẫu cắt hơn một góc gan ở những người bệnh xơ gan hoặc viêm gan hoạt động mạn tính là khó vì khả năng làm việc cúa gan phần còn lại là kém (tỷ lệ tử vong cao). Thường đó là các chống chỉ định của giải phẫu cắt phần lớn gan nhưng có khả năng không chống chỉ định cho ghép gan.

 

2. Các lựa chọn chữa trị đang được đánh giá trên lâm sàng

Bởi có nhiều người bệnh ung thư gan khu trú bị tái phát bệnh sau mổ xẻ cắt gan, cần thường dùng các phương pháp điều trị phù trợ như cách làm truyền hóa chất vào động mạch gan trong vùng khối u hay toàn thân . Một thử nghiệm ngẫu nhiên tiến hành trên 43 người bệnh cho thấy thời gian sống thêm được kéo dài khi tiêm phù trợ sau mổ xẻ một liều cô độc (1850 MBq) lipiodol I-131 qua động mạch gan. thời gian sống thêm trung bình của nhóm bệnh nhân được chữa trị phù trợ là 57 tháng so với 13,6 tháng ở nhóm bệnh nhân chỉ được giải phẫu cắt gan. Lipiodol không độc, nhưng cần phải điều trị stress tuyến giáp trước và sau mổ xẻ . Thử nghiệm lâm sàng được kết thúc trước dự tính vì sự dị biệt về giai đoạn sống thêm giữa nhóm chữa trị và nhóm chứng xuất hiện sớm. Vì thế , những kết quả này chỉ được coi là sơ bộ và cần phải được kiểm chứng. Trong một nghiên cứu tiến hành liệu pháp đề kháng dùng interleukin-2 và các tế bào lymphô tự thân hoạt hóa kháng CD3 cho thấy là chỉ trì hoãn thời kỳ bệnh ổn thỏa , chứ không kéo dài thời gian sống sót nói chung . Ung thư gan tái phát nhưng khu trú đôi khi có khả năng chữa trị thành tựu bằng tái giải phẫu .

3. Ung thư gan tiên phát người lớn

giai đoạn khu trú nhưng không thể cắt bỏngười mắc bệnh có khối u khu trú T2, T3 và T4; N0; Mo nhưng chẳng thể cắt bỏ do vị trí của khối u ở trong gan và các tình trạng bệnh đi kèm (như xơ gan) hoặc thậm chí là u hai bên thuỳ phạm vi có thể được chữa trị theo phương pháp nút động mạch bằng hóa chất (làm giảm khối u), phá huỷ u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc phương pháp phá huỷ khối u bằng nhiệt khi khối u có đường kính nhỏ hơn 5cm. thời kỳ sống thêm tương đương với khi điều trị bằng phương pháp mổ xẻ cắt gan.

Thử nghiệm lâm sàng thường dùng hóa trị liệu thân thể , hóa trị liệu vùng hoặc kháng thể gán đồng vị phóng xạ có thể làm bệnh ổn định khi khối u gan không thể cắt bỏ. Các phương thức chữa trị khác bao gồm nút động mạch gan bằng bột gel xốp hoặc là các phần cơ và hóa chất, thường là adriamycin. Những phương thức này thường gây hoại tử ở trong tâm khối u, làm giảm kích cỡ khối u và giảm đau, nhưng tác dụng của nó thường chỉ trì hoãn một giai đoạn ngắn. Bất kỳ sự can thiệp nào vào hệ thống tưới máu động mạch (bao gồm cả hóa trị liệu truyền) có thể làm cho bệnh nặng hơn và bị chống chỉ định khi có tăng áp lực tĩnh mạch cửa, huyết khối tĩnh mạch cửa hoặc vàng da trên lâm sàng. Một xem xét ngẫu nhiên kết thúc sớm cho thấy phương thức nút động mạch bằng hóa chất không trì hoãn thêm được thời gian sống so với điều trị bảo tàng .

Các lựa chọn điều trị gồm:- Nút động mạch bằng hóa chất, huỷ hoại u bằng đông lạnh, tiêm ethanol qua da hoặc huỷ hoại u bằng nhiệt đối với khối u nhỏ (có đường kính từ 5cm trở xuống), khu trú nhưng không thể cắt bỏ.

- Đối với một số người mắc bệnh ung thư gan khu trú không thể cắt bỏ, đặc biệt là ung thư tế bào gan dạng sợi, ghép gan có khả năng là chọn lựa chữa trị hữu hiệu.

- Hóa trị liệu (truyền vào vùng khối u gan): hóa chất có khả năng truyền bằng một bơm đặt dưới da vào tĩnh mạch cửa qua một ống catheter đặt vào động mạch gan. Các nghiên cứu trước đây sử dụng các hóa chất chuẩn đã cho thấy tỷ lệ đáp ứng đạt được ở 15%-30% các trường hợp như vậy, nhưng các hóa chất và kĩ thuật mới hơn (vi hạt giáng hóa sinh vật học ) đã được đánh giá trong các thử nghiệm lâm sàng đi đầu, cũng như hóa trị liệu vùng kết hợp với chiếu xạ ngoài. Nhiều bệnh nhân không được điều trị bằng những phương án này vì những phương pháp này thường đòi hỏi mổ xẻ can thiệp.

- Hóa trị liệu toàn thân : giai đoạn bệnh ổn thỏa kéo dài là hiếm gặp và giai đoạn sống thêm không tăng lên đáng kể.

- giải phẫu , hóa trị liệu và tia xạ trị liệu: Các giải pháp này có thể được kết hợp trong các thử nghiệm lâm sàng đối với những người bệnh có một khối u gan chính với nhiều ổ nhưng số lượng khối u ít, mổ xẻ cắt gan hay giải phẫu cắt lạnh khối u chính có thể tiến hành trước khi truyền hóa chất vào phần gan còn lại bơ vơ hoặc kết hợp với biện pháp thấu nhiệt, tia phóng xạ hoặc tia xạ và chất nhạy cảm phóng xạ. Hóa trị liệu kết hợp với tia phóng xạ cũng được dùng để làm co nhỏ khối u trước khi giải phẫu .

- Tiêm alcohol vào trong khối u.

- Các phương án khác bao gồm sử dụng chất mãn cảm phóng xạ và chiếu xạ ngoài mà không dùng hóa chất. Tính nhạy cảm phóng xạ của mô gan lành so đo với mô u phải luôn được theo dõi khi sử dụng tia xạ trị liệu.

- phá huỷ khối u bằng nhiệt.

giai đoạn muộnKhông có cách làm chữa trị chuẩn nào cho người mắc bệnh ung thư gan di căn GĐ muộn (T bất kỳ, N1 hoặc Mi). Những người mắc bệnh như vậy nên xem xét việc tham dự vào thử nghiệm lâm sàng đánh giá tác dụng của các loại thuốc điều trị ung thư hoặc sinh học mới (các xem xét GĐ I và II) hoặc kết hợp các loại thuốc hiện đang lưu hành, các chất mẫn cảm phóng xạ và tia xạ trị liệu. Trong những nghiên cứu này thỉnh thoảng thấy có hậu quả làm bệnh ổn thỏa .

điều trị bằng chiếu xạ ngoài và hóa trị liệu kèm theo kháng thể anti-ferritin đa clon đánh dấu phóng xạ sau đó tạo ra đáp ứng trung thực ở khoảng 50% người mắc bệnh , nhưng nó là cách làm điều trị tại chỗ và không thề điều trị bệnh thân thể .

Ung thư gan nguyên phát người cao tuổi tái pháttiên đoán đối với tất cả người mắc bệnh ung thư gan tiên phát đã được chữa trị nhưng bệnh vẫn tiến triển hay tái phát là không tốt. Việc chọn lựa các cách làm điều trị tiếp theo phụ thuộc vào nhiều nhân tố , bao gồm việc điều trị trước đó, vị trí tái phát, sự có mặt của bệnh xơ gan và chức năng gan cũng như nghĩ suy của từng cá nhân .

Nên phẫu thuật lại nếu có khả năng , nhưng hầu hết người mắc bệnh đều tái phát, thường là ở gan.

Nếu không thể giải phẫu lại được, các lựa chọn chữa trị cho người mắc bệnh ung thư gan tái phát có thể bao gồm việc sử dụng phương thức thuyên tắc hóa dầu qua động mạch (TOCE), tiêm ethanol qua da (PEIT), hóa trị liệu hoặc ghép gan.

Tại một viện duy nhất cùa Hồng Kông, các bác sĩ tiến hành theo sát 244 bệnh nhân được giải phẫu cắt gan để phát hiện tái phát trong gan. Trong số 244 người mắc bệnh , 139 người mắc bệnh không bị tái phát trong gan và thời kỳ sống thêm một năm, ba năm, năm năm tương ứng là 87%, 79% và 74%. Trong Số 105 người mắc bệnh ung thư tái phát trong gan, 11 người mắc bệnh được chữa trị bằng tái giải phẫu và tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 81%, 70% và 69%; 71 người bệnh được chữa trị bằng biện pháp TOCE và tỳ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là 72%, 38%, 20%; 6 người mắc bệnh được chữa trị bằng giải pháp PEIT có tỷ lệ sống thêm một năm, ba năm và năm năm tương ứng là67%, 22% và 0%; 17 người bệnh còn lại được điều trị hoặc bằng hóa trị liệu toàn thân hoặc điều trị bảo tồn , không có bệnh nhân nào sống thêm được ba năm. Các thử nghiệm lâm sàng là hợp lý và nên tiến hành khi có khả năng chăm sóc bệnh nhân dị ứng hải sản

Xác định ung thư gan qua những biến hóa bất thường

Posted: by Unknown in Nhãn:
0

Ung thư gan là môt bệnh không có các biểu hiện rõ ràng cho tới khi bệnh phát triển tới GĐ muộn. bởi thế mà việc khám sức khỏe định kỳ và sử dụng thuốc điều trị ung thư là một vấn đề rất cấp thiết đề có thể phát hiện sớm được bệnh. cùng với đó, chúng ta nên chú ý tới những biến hóa thất thường trên cơ thể như : sưng đau bụng, vàng da, mệt mỏi , giảm cân không có chủ đích, buồn nôn, chán ăn... Nếu những dấu hiệu này xuất hiện cần phải tới ngay các cơ sở chuyên khoa để được kiểm tra và chữa trị cụ thể.

Bụng sưng và đau

Triệu chứng này xuất hiện có khả năng là do gan bị sưng và tích tụ chất dịch trong ổ bụng. các tế bào ung thư gan có khả năng gây kích ứng và viêm gan, làm cho cơ quan này này bị sưng lên. chất lỏng tích tụ trong bụng là do khối u gia tăng áp lực lên các mạch máu chảy qua gan

Các triệu chứng liên tưởng tới mật

-          Vàng da: Đây là triệu chứng thường gặp của ung thư gan, hiện tượng này được xảy ra khi khối u gan lan tới ống dẫn mật, ngặn chặn dịch mật tiết ra khỏi gan. Chính vì hiện tượng này có khả năng khiến da và tròng mắt của nguời bệnh trở thành màu vàng, còn được gọi là vàng da

-          bên cạnh đó, hiện tượng tắc ống dẫn mật có thể dẫn tới các triệu chứng như : nước giải có màu đậm và phân nhạt màu hơn

Các triệu chứng do thay đổi nội tiết tố

Ung thư gan là một bệnh có thể gây ra những thay đổi về nồng độ hóa chất và các tế bào trong máu, hệ quả của nó là gây tác hại tới tất cả cơ thể . Những thay đổi thất thường này có thể được phát hiện qua  biện pháp xét nghiệm máu trước khi khối u xuất hiện. những bệnh nhân ung thư gan thường có nồng độ đường trong máu thấp, nồng độ canxi, cholesterol cao và một số lượng lớn các tế bào máu đỏ. Những biểu hiện biến hóa trong máu có khả năng dẫn tới tình trạng  táo bón, buồn nôn, mỏi mệt hay tiêu chảy ở những người mắc bệnh .

Những triệu chứng của bệnh ung thư gan thông thường rất dễ bị nhầm lẫn với các triệu chứng của bệnh xơ gan hoặc viêm gan B hay C. tuy nhiên , nhóm đối tượng này cũng nằm trong những đối tượng có nguy cơ mắc ung thư gan cao nhất. do đó mà nếu như một ai đó nằm trong nhóm có nguy cơ cao kèm theo các triệu chứng viêm gan, đau hoặc sốt, thì một lời khuyên hữu ích là nên tới ngay bệnh viện ung bướu để được kiểm tra và có những cách làm điều trị bệnh kịp thời.

Bí quyết chăm sóc bệnh nhân dị ứng mẩn ngứa, nổi mề đay

Giang mai ở thai phụ tiềm ẩn nhiều nguy hiểm

Posted: by Unknown in Nhãn:
0


Người dân ngồi chờ khám thai tại BV Phụ sản Mêkông, TP.HCM - Ảnh: Hữu Khoa Một nghiên cứu của BV Da liễu TPHCM được báo cáo hồi tháng 12-2014 cho thấy cả hai năm 2009 và 2010 tại TP chỉ có 800 thai phụ bị giang mai (mỗi năm 400 ca).

Qua năm 2011, số thai phụ bị giang mai vọt lên 750 ca. Sang năm 2012 và 2013, mỗi năm phát hiện 800 thai phụ bị bệnh này.

Lây từ mẹ sang con

BV Da liễu TP còn ghi nhận một bé gái bị giang mai bẩm sinh khi mới chào đời (bé sinh tháng 8/2014, quê Đồng Tháp). Mẹ bé bị giang mai nhưng chưa được điều trị trong lúc mang thai nên đã lây bệnh này cho con.

Bé này sinh non tháng, được chẩn đoán bị giang mai bẩm sinh sớm, đã được điều trị tại BV Đồng Tháp nhưng sau đó phải chuyển lên BV Nhi Đồng 1, TPHCM điều trị tiếp. Khi vừa chào đời bé đã bị viêm phổi sơ sinh, nhiễm trùng huyết, vàng da, vàng mắt, lách to, tăng men gan.

Theo ThS.BS Lê Văn Hiền - phó giám đốc chuyên môn BV Phụ sản Mêkông, TPHCM,  giang mai là bệnh lây truyền qua đường tình dục do xoắn khuẩn giang mai Treponema pallidum gây nên.

Theo y văn, tỉ lệ bệnh giang mai ở phụ nữ mang thai chiếm khoảng 1%. Tại BV Phụ sản Mêkông, tỉ lệ này 0,3-0,5%.

Các thai phụ này đều không đi khám thai hoặc chỉ khám thai tại các phòng mạch nhưng không thường xuyên nên không phát hiện bệnh trong lúc mang thai.

Theo BS Hiền, sau khi tiếp xúc với nguồn lây, người bệnh sẽ trải qua giai đoạn ủ bệnh kéo dài khoảng ba tuần, thường không có triệu chứng gì đặc biệt.

Sau giai đoạn ủ bệnh này, những nơi tiếp xúc với xoắn khuẩn giang mai sẽ xuất hiện những vết loét (môi lớn, môi bé, âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, dương vật…) và được gọi là giang mai kỳ 1.

Những vết loét này có đặc điểm là đáy rất sạch và không đau, không ngứa, không có mủ nên người bệnh bỏ qua, không đi khám.

Đặc biệt xoắn khuẩn giang mai rất nhạy với các chất sát khuẩn, xà phòng… do đó nếu người bệnh vệ sinh sạch vùng tổn thương trước khi đi khám, bác sĩ cũng không tìm thấy xoắn khuẩn giang mai ở vết loét.

Nếu không được điều trị, xoắn khuẩn này sẽ vào máu và trở thành giang mai kỳ 2 (sau giang mai kỳ 1 khoảng 6-10 tuần).

Khi đó bệnh nhân có thể xuất hiện những hồng ban toàn thân hoặc những vết sẩn. Giai đoạn này thường kéo dài 3-6 tuần. Nếu không được điều trị, những triệu chứng này cũng tự hết nhưng sẽ chuyển sang giang mai kỳ 3.

Tuy nhiên giang mai kỳ 3 có thể xuất hiện muộn sau vài năm, thậm chí sau hàng chục năm kể từ khi bị giang mai kỳ 1. Lúc này xoắn khuẩn có thể gây cho người bệnh những tổn thương giang mai thần kinh, tim mạch, gan…

Còn một dạng khác là giang mai tiềm ẩn, tức người bệnh đã mắc bệnh giang mai nhưng không để ý thấy triệu chứng gì đặc biệt và cũng không biết bị nhiễm bệnh khi nào, chỉ phát hiện bệnh tình cờ qua xét nghiệm máu.

Giang mai tiềm ẩn không có biểu hiện, triệu chứng nhưng vẫn lây truyền cho bạn tình và lây cho thai nhi.

Nhiều biến chứng nguy hiểm

“Sự lây truyền bệnh giang mai từ mẹ sang thai nhi không xảy ra trong ba tháng đầu mang thai mà chỉ xảy ra từ tháng thứ 4, thứ 5 trở đi của thai kỳ, do lúc đó bánh nhau mới cho phép những vật thể có kích thước lớn như xoắn khuẩn giang mai đi qua” - BS Hiền cho biết.

Nếu trẻ bị lây bệnh giang mai từ người mẹ có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng là thai chết lưu, phù nhau thai; nhiễm trùng bào thai; giang mai bẩm sinh: trẻ suy dinh dưỡng nặng, da nhăn nheo như ông già, tim bẩm sinh (thường gặp hội chứng Marfan), nổi ban khắp người…

Nếu trẻ bị giang mai bẩm sinh muộn sẽ có những biểu hiện bệnh giống giang mai kỳ 3 như nói trên.

Giang mai bẩm sinh muộn thường xuất hiện lúc trẻ 3-5 tuổi, với biểu hiện viêm mống mắt kẽ hoặc xuất hiện lúc dậy thì, bắt đầu bằng các triệu chứng nhức mắt, sợ ánh sáng ở một bên mắt, về sau là cả hai bên và có thể dẫn đến mù lòa.

Trẻ còn bị điếc cả hai tai bắt đầu từ 10 tuổi, thư­ờng kèm theo viêm mống mắt kẽ. Sau đó bệnh diễn tiến đến to hai đầu gối và đầu gối có n­ước, xuất hiện lúc 16-20 tuổi. Bệnh còn gây thư­ơng tổn xư­ơng khiến trẻ bị thủng vòm miệng, mũi tẹt, trán dô, x­ương chày lưỡi kiếm.

Theo BS Hiền, bệnh giang mai khá phổ biến ở phụ nữ và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng cho thai nhi. Do đó người mẹ cần phòng ngừa lây truyền cho thai nhi bằng việc đi khám tiền hôn nhân, tiền thai (trước khi mang thai) và làm xét nghiệm huyết thanh học để tầm soát bệnh giang mai.

Xét nghiệm tầm soát bệnh giang mai rẻ tiền, dễ làm và thông dụng nên mọi phụ nữ mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ nên đi khám thai và làm xét nghiệm này để phát hiện và điều trị giang mai trước khi có khả năng lây nhiễm cho thai nhi.

Phòng ngừa và điều trị giang mai sớm

Điều trị giang mai ở phụ nữ mang thai khá đơn giản bằng kháng sinh Penicilline, Cetriaxone. Những kháng sinh này không chống chỉ định ở phụ nữ mang thai nên có thể yên tâm sử dụng. Tuy nhiên, cần chú ý một số thuốc chống chỉ định ở phụ nữ mang thai như Doxycycline và Tetracycline.